Việt Kiều là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là những người Việt Nam ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng lớn nhất trong số họ sống ở Hoa Kỳ. Làn sóng người Việt Nam ở nước ngoài lâu đời nhất rời Việt Nam để tị nạn kinh tế và chính trị sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 và sự sáp nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam .
Người Việt Nam ở nước ngoài là cộng đồng người gốc Á lớn thứ năm, sau Ấn Độ, người Hoa, người Philippines và người Liban.
Quốc gia | Số lượng người |
---|---|
Hoa Kỳ | 2.162.610 (2018) |
Campuchia | 400.000 – 1.000.000 |
Nhật Bản | 450.046 |
Pháp | ~ 400.000 |
Châu Úc | 294,798 (2016) |
Đài loan | 243,734 (năm 2021) |
Canada | 240.514 |
Hàn Quốc | 224.518 (năm 2020) |
Đức | 188,000 (2019) |
Nga | 13,954 – 150,000 |
Lào | 122.000 |
Thái Lan | 100.000 – 500.000 |
Cộng hòa Séc | 60.000 – 200.000 |
Malaysia | 80.000 |
Ba lan | 25.000 – 60.000 |
Vương quốc Anh | 50.000 – 100.000 |
Angola | 45.000 |
Ukraine | 10.000 – 50.000 |
Trung Quốc | 36,205 |
Philippines | 27.600 |
Na Uy | 27.366 (năm 2020) |
Hà Lan | 23,488 (2019) |
Thụy Điển | 20,676 (năm 2020) |
Ma Cao | ~ 20.000 (2018) |
Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất | 20.000 |
Ả Rập Saudi | 20.000 |
Đan Mạch | 15,953 (năm 2020) |
Bỉ | 12.000-15.000 |
Phần Lan | 12.051 |
Singapore | 15.000 |
Síp | ~ 12.000 |
Slovakia | 5,565 – 20,000 |
New Zealand | 10.086 (2018) |
Thụy sĩ | ~ 8.000 |
Hungary | 7,304 (2016) |
Ý | 5.000 |
Áo | 5.000 |
Romania | 3.000 |
Bungari | 2.500 |
Theo một báo cáo năm 2014 của Associated Press, “phụ nữ chiếm ít nhất 2/3 số công nhân rời bỏ đất nước”, và đôi khi bỏ lại những người cha để chăm sóc con cái. Báo cáo cũng cho biết “tổng lượng kiều hối gửi về từ tất cả người lao động Việt Nam ở nước ngoài hiện nay đã vượt quá 12 tỷ USD mỗi năm”.
Kiều hồi năm 2021 là đạt 12,5 tỷ USD – Báo chính phủ.
Xem thêm: Số lượng kiều hối Việt Nam qua các năm.
Ngoài ra, tính đến năm 2020, có 190.000 người Việt Nam đang du học ở nước ngoài. Hầu hết học ở Úc (30.000), Hoa Kỳ (29.000), Canada (21.000), Anh (12.000) và các nước Châu Á (70.000); cũng như một số lượng không xác định những người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp, như được tiết lộ bởi những cái chết của xe tải Essex trên khắp mạng lưới buôn bán người bất hợp pháp khổng lồ trải dài từ Á sang Âu.
Xem thêm: Top 10 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất.
Hoa Kỳ
Người Việt nhập cư tại Hoa Kỳ là một trong những cộng đồng nhập cư lớn nhất trên thế giới. Cộng đồng này đã tăng từ 231.000 người vào năm 1980 lên tới 1,3 triệu người vào năm 2012. Hầu hết những người nhập cư chạy sang Hoa Kỳ tị nạn sau Chiến tranh Việt Nam, đến trong ba làn sóng riêng biệt từ những năm 1960 đến những năm 1990. Làn sóng đầu tiên chủ yếu bao gồm các quân nhân và công dân Nam Việt Nam bị các lực lượng cộng sản nhắm tới vì họ có quan hệ với cả chính phủ Nam Việt Nam và Hoa Kỳ.
Làn sóng thứ hai, xảy ra vào những năm 1970, đưa người Việt Nam ở nông thôn đến Hoa Kỳ trong tình trạng được gọi là “cuộc khủng hoảng thuyền nhân”. Làn sóng này được đặc trưng bởi những người không được học hành hoặc giàu có của làn sóng đầu tiên, cũng như một số lượng lớn người gốc Hoa đang chạy trốn sự đàn áp của chính phủ Việt Nam.
Làn sóng cuối cùng diễn ra vào những năm 1980 đến những năm 1990. Đa số những người nhập cư này là con của các bà mẹ Việt Nam và lính Mỹ, và họ đã làm tăng đáng kể dân số Việt Nam ở Mỹ. Đến năm 2012, dân số này chiếm 31% trong tổng số 4 triệu dân số sinh ra từ nước ngoài đến từ Đông Nam Á, 11% trong tổng số 11,9 triệu người sinh ra từ châu Á và 3% trong tổng số 40,8 triệu dân số sinh ra nước ngoài.
Đến năm 1979, Liên Hiệp Quốc công nhận rằng cuộc khủng hoảng người tị nạn Việt Nam là một “vấn đề thế giới“, dẫn đến Hội nghị Geneva lần thứ nhất về Người tị nạn Đông Dương vào tháng 7 năm 1979. Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Úc, Pháp và Canada đều đồng ý. chấp nhận người tị nạn để tái định cư, và số người tị nạn Việt Nam đến Hoa Kỳ đạt cao nhất từ năm 1979 đến năm 1982. Năm đó, Tổng thống Jimmy Carter đã tăng gấp đôi số người tị nạn Đông Nam Á được chấp nhận vào Hoa Kỳ, từ 7.000 người lên 14.000 người. Tuy nhiên, 62% người Mỹ cho biết họ không tán thành biện pháp này.
Những người Nam Việt Nam đến Hoa Kỳ trong làn sóng thứ hai không tự nguyện. Họ bị Cộng quân buộc phải rời khỏi nhà và tìm nơi ẩn náu tại Hoa Kỳ. Nhiều người trong số này cảm thấy bị phản bội trước cách xử lý của Hoa Kỳ đối với tình hình ở Việt Nam và cảm thấy mâu thuẫn trong việc thực hiện chuyến hành trình tới đó. Gần như tất cả những người Việt Nam di cư đến Hoa Kỳ trong thời gian này đều được liệt vào danh sách những người tị nạn, không phải là người nhập cư, vì cách thức bị ép buộc mà họ đã bị lưu đày sang Hoa Kỳ; 99% người Việt Nam mới sang Hoa Kỳ nhận Thẻ xanh năm 1982 đều thuộc diện này.
Tại Hoa Kỳ, người Việt nhập cư có trình độ học vấn cao. Vào năm 2015, 30% người Mỹ gốc Việt có bằng Cử nhân trở lên (so với 19% của dân số chung). Cụ thể, 21% người Mỹ gốc Việt đã có bằng Cử nhân (37% người Việt sinh ra ở Mỹ và 18% người nước ngoài- sinh ra là người Việt Nam), và 8,9% đã có bằng sau đại học (14% đối với người Việt sinh ra ở Mỹ và 7% đối với người Việt sinh ra ở nước ngoài), so với 11% có trình độ sau đại học trong dân số Mỹ nói chung.
Quận Cam, California, là nơi có lượng người Mỹ gốc Việt tập trung đông nhất trong số tất cả các quận ở Mỹ và là nơi tập trung dân số gốc Việt lớn nhất bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Campuchia
Người Việt Nam chiếm khoảng 5% dân số Campuchia, khiến họ trở thành dân tộc thiểu số lớn nhất. Người Việt Nam bắt đầu di cư đến Campuchia từ thế kỷ 17. Năm 1863, khi Campuchia trở thành thuộc địa của Pháp, nhiều người Việt Nam được Pháp đưa sang Campuchia làm việc trên các đồn điền và làm công chức. Trong chế độ Lon Nol (1970–1975) và Pol Pot (1975–1979), nhiều người Việt Nam sống ở Campuchia đã bị giết. Những người khác được hồi hương hoặc trốn sang Việt Nam hoặc Thái Lan.
Trong suốt 10 năm Việt Nam “ở” Campuchia từ năm 1979 đến năm 1989, nhiều người Việt Nam trước đây sống ở Campuchia đã trở về và cùng với họ là bạn bè và người thân. Nhiều cựu quân nhân miền Nam Việt Nam cũng đã đến Campuchia, chạy trốn sự đàn áp của chính quyền.
Nhiều người sống ở Campuchia thường nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ và đã du nhập đạo Cao Đài, với 2 ngôi chùa được xây dựng ở Campuchia. Kết quả là nhiều người Campuchia đã học tiếng Việt. Họ tập trung ở các tỉnh Kratie và Takeo của Campuchia, nơi các làng mạc chủ yếu là người Việt Nam sinh sống.
Người Việt Nam cũng là nhóm khách du lịch hàng đầu ở Campuchia, với 130.831 người, tăng 19% tính đến năm 2011.
Pháp
Số lượng người gốc Việt sinh sống tại Pháp ước tính vào khoảng 350.000 người vào năm 2014. Pháp là quốc gia phương Tây đầu tiên có người Việt Nam di cư đến định cư do sự đô hộ của Việt Nam bắt đầu vào cuối những năm 1850. Thời kỳ thuộc địa chứng kiến sự đại diện đáng kể của sinh viên Việt Nam tại Pháp, cũng như những người lao động chuyên nghiệp và công nhân, với nhiều người định cư lâu dài. Đất nước này sẽ tiếp tục là nơi sinh sống của cộng đồng Việt kiều lớn nhất bên ngoài châu Á cho đến những năm 1980, khi số lượng người tị nạn Chiến tranh Việt Nam tái định cư ở Hoa Kỳ ngày càng nhiều.
Những người tị nạn Việt Nam định cư tại Pháp thường có trình độ học vấn cao hơn và sung túc hơn những người tị nạn Việt Nam định cư ở Bắc Mỹ, Úc và phần còn lại của Châu Âu, có thể là do văn hóa quen thuộc với văn hóa Pháp và điều đó nhiều gia đình Việt Nam giàu có đã định cư ở Pháp.
Những thế hệ sau này của người Việt gốc Pháp đồng nhất với văn hóa Pháp hơn là Việt Nam, vì hầu hết được lớn lên và lớn lên trong hệ thống Pháp chứ không phải Việt Nam. Truyền thông Pháp và các chính trị gia nhìn chung xem cộng đồng Việt Nam là “thiểu số kiểu mẫu“, một phần vì họ được thể hiện là có mức độ hội nhập cao trong xã hội Pháp cũng như thành công về kinh tế và học thuật.
Cộng đồng người Việt tại Pháp bị chia rẽ giữa những người chống lại chính quyền Hà Nội và những người ủng hộ nó. Trại ủng hộ cộng sản là nhóm được thành lập nhiều hơn và là nhóm lớn hơn cho đến những năm 1970, bao gồm chủ yếu là sinh viên, công nhân và những người nhập cư lâu năm đến trước năm 1975 và con cháu của họ. Trong khi đó, trại chống cộng bao gồm sinh viên, người tị nạn và người nhập cư trung lưu từ miền Nam cũ, bắt đầu đến sau khi Việt Nam độc lập vào năm 1954 nhưng hầu hết họ đã bỏ trốn khỏi Việt Nam sau năm 1975.
Hai phe có mục tiêu và hệ tư tưởng chính trị trái ngược nhau, và các thành viên của một nhóm này hiếm khi tương tác với những thành viên của nhóm kia. Sự chia rẽ chính trị như vậy đã ngăn cản người Việt Nam tại Pháp hình thành một cộng đồng thống nhất, vững mạnh.
Úc
Người Việt Nam ở Úc là một trong những nhóm dân tộc lớn nhất ở Úc, với 294.798 người tuyên bố có tổ tiên là người Việt Nam tại cuộc điều tra dân số năm 2016. Những người Úc gốc Việt thế hệ thứ nhất đến tị nạn rất đa dạng về thu nhập và tầng lớp xã hội. Người Việt Nam gốc Úc có xu hướng đạt được trình độ học vấn cao và thành công. Năm 2001, tỷ lệ tham gia lao động của người tị nạn Việt Nam là 61%, tương đương với tỷ lệ tham gia lao động của những cư dân sinh ra ở Úc (63%). Khoảng 3/4 dân tộc Việt Nam sống ở New South Wales (40,7%) và Victoria (36,8%).
Họ, Nguyễn, là họ phổ biến thứ bảy ở Úc (thứ hai sau Smith trong danh bạ điện thoại ở Melbourne).
Xem thêm: Họ nhiều nhất ở Việt Nam.
Nhật Bản
Hơn 135.000 người Việt Nam cư trú tại Nhật Bản vào cuối năm 2014. Năm 2019, khoảng 371.755 người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản, trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn thứ ba tại Nhật Bản. Ít nhất 190.000 là “thực tập sinh có tay nghề cao” và con số đặc biệt này đang tăng mạnh. Người Việt Nam đến Nhật Bản lần đầu tiên khi là sinh viên vào đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, hầu hết cộng đồng bao gồm những người tị nạn được nhận vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, cũng như một tỷ lệ nhỏ hơn những người lao động nhập cư bắt đầu đến từ năm 1994.