Những nhà khoa học nữ mà bạn cần biết

Top 11 nhà khoa học nữ mà bạn cần biết

Cho dù tiến bộ kỹ thuật điều trị ung thư hay giúp chúng ta hạ cánh trên Mặt trăng, phụ nữ trong khoa học đã giúp thay đổi tiến trình lịch sử. Mặc dù vẫn còn nhiều việc phải làm để thu hút nhiều phụ nữ hơn tham gia vào sự nghiệp STEM, nhưng có vô số ví dụ về các nhà khoa học nữ đáng kinh ngạc đã làm việc không mệt mỏi để nâng cao kiến ​​thức của chúng ta về thế giới khoa học.

Trên thực tế, chúng ta có thể dễ dàng kể tên các nhà khoa học nữ nổi tiếng, những người thực sự có thể nói rằng họ đã có tác động lâu dài đến xã hội.

Từ những huyền thoại nổi tiếng như Marie Curie đến các nhà khoa học như Alice Ball (người chết sớm khiến sự nghiệp của cô ấy rút ngắn lại), có vô số phụ nữ đã đóng góp cho khoa học. Vật lý, hóa học, thiên văn học và toán học chỉ là một số lĩnh vực mà những người phụ nữ này đã tạo được ảnh hưởng.

Một số người, như Caroline Herschel, đã phải vật lộn để được công nhận trong thời điểm mà việc kiếm tiền như một nhà khoa học nữ là chưa từng có. Những người khác, như Jennifer Doudna, đang dẫn đầu tương lai bằng cách phát triển các công nghệ mới.

Lấy cảm hứng từ một số phụ nữ đáng kinh ngạc trong danh sách của chúng tôi, bao gồm 4 người đoạt giải Nobel.

Caroline Herschel, nhà thiên văn học (1750–1848)

Con đường đến với thiên văn học của Caroline Herschel bắt đầu khi bà rời quê hương Đức để đến sống với anh trai William ở Anh. Mặc dù mẹ bà đã cố gắng ngăn cản việc học, Herschel tự nhiên rất tò mò và bắt đầu nuôi dưỡng sở thích về thiên văn học cùng với anh trai bà. Mặc dù bà chỉ bắt đầu bằng việc giúp anh lắp kính thiên văn và ghi lại những quan sát của anh, bà đã bắt đầu sự nghiệp của riêng mình một cách nghiêm túc.

Bà đã phát hiện ra nhiều sao chổi và là một trong những phụ nữ đầu tiên làm như vậy. Sau khi gửi những phát hiện của mình cho Hoàng gia Thiên văn học, bà đã được yêu cầu sửa lại danh mục sao chính thức. Cuối cùng, Hoàng gia bắt đầu trả lương cho bà khi bà làm trợ lý cho anh trai – điều chưa từng có đối với một phụ nữ vào thời điểm đó.

Năm 1835, bà – cùng với Mary Somerville – được vinh danh là thành viên danh dự của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia. Họ là hai phụ nữ đầu tiên trở thành thành viên.

Marie Curie, nhà vật lý (1867–1934)

Bất kỳ danh sách các nhà khoa học nữ đáng kinh ngạc nào cũng sẽ thiếu nghiêm trọng nếu không có sự góp mặt của Marie Curie, người mang tính biểu tượng. Những thành tựu của bà với tư cách là một nhà vật lý vượt xa giới tính của bà, mặc dù bà vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà khoa học nữ.

Curie không chỉ khám phá ra hai nguyên tố – radiumpolonium – mà bà ấy còn đặt ra từ phóng xạ. Bà là người đầu tiên thử xạ trị ung thư và ủng hộ việc sử dụng nó trong y học. Curie cũng phát triển các đơn vị tia X di động được sử dụng trong Thế chiến thứ nhất để giúp những người lính bị thương có được sự chăm sóc cần thiết.

Năm 1903, Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel Vật lý – hoặc bất kỳ giải Nobel nào cho vấn đề đó – cho công trình nghiên cứu “hiện tượng bức xạ”. Năm 1911, bà thêm một giải Nobel nữa vào danh sách vinh dự của mình. Lần này, bà đã giành được giải Nobel Hóa học nhờ công trình phân lập radium. Cho đến ngày nay, bà là người duy nhất được trao giải Nobel ở các hạng mục khoa học khác nhau.

Alice Ball, nhà hoá học (1892–1916)

Mặc dù Alice Ball chỉ sống đến 24 tuổi, nhưng di sản của bà ấy là trường tồn. Là một sinh viên đại học nghiên cứu hóa dược, bà ấy đã phá vỡ các rào cản. Trong thời gian đó, bà đã xuất bản một bài báo cùng với giáo sư nam của mình trên một tạp chí khoa học danh tiếng, đây là một kỳ tích hiếm có đối với một phụ nữ và càng hiếm hơn đối với một phụ nữ Mỹ gốc Phi vào thời điểm đó.

Ball sẽ trở thành người phụ nữ đầu tiên – và người Mỹ gốc Phi đầu tiên – lấy được bằng thạc sĩ tại Đại học Hawaii. Bà cũng sẽ trở thành nữ giáo sư hóa học người Mỹ gốc Phi đầu tiên của trường đại học. Bà cũng đã có những công việc quan trọng trong cuộc chiến chống lại bệnh phong bằng cách phát triển một phương pháp điều trị gọi là “Phương pháp Ball“, phương pháp hiệu quả nhất hiện có vào đầu thế kỷ 20.

Bạn có biết, đã có một bộ phim về bà:

Cecilia Payne-Gaposchkin, nhà vật lý và thiên văn học (1900–1979)

Đã có lúc thế giới không chắc những ngôi sao được làm bằng gì. Nhưng nhờ công trình của Cecilia Payne-Gaposchkin, chúng ta đều biết rằng chúng được cấu tạo từ heli và hydro. Ấn tượng hơn cả phát hiện này là việc nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Anh đã đưa ra tuyên bố khi bà chỉ là một nghiên cứu sinh vào năm 1925. Mặc dù tuyên bố trong luận án của bà ban đầu bị giới khoa học bác bỏ, nhưng sau đó nó đã được chứng minh là đúng qua quan sát.

Như thể sự đóng góp đó là không đủ, công việc của bà ấy về các ngôi sao biến hình cũng mang tính đột phá. Bà và nhóm của mình đã thực hiện hơn 3 triệu quan sát giúp xác định sự tiến hóa của các ngôi sao và đặt nền tảng cho vật lý thiên văn hiện đại. Bà cũng đánh dấu một cột mốc quan trọng của Đại học Harvard, khi bà là người đầu tiên có bằng Tiến sĩ.

Barbara McClintock, nhà di truyền học (1902–1992)

Từ nghiên cứu ung thư đến kỹ thuật gen, những khám phá của nhà di truyền học người Mỹ Barbara McClintock đã có những tác động sâu rộng. McClintock nghiên cứu về thực vật học và bị cuốn hút bởi những khám phá mới về DNA. Bà đã tìm hiểu sâu về sự di truyền của ngô và nhận ra rằng nhiễm sắc thể chịu trách nhiệm cho việc truyền lại các tính trạng di truyền. Bà cũng phát hiện ra “gen nhảy”, hay thực tế là các gen đôi khi có thể chuyển vị, khiến một số đặc điểm nhất định bị bật và tắt.

McClintock đã giành được giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1983 cho công trình nghiên cứu chuyển vị. Tính đến năm 2022, bà là người phụ nữ duy nhất tự mình chiến thắng hạng mục đó.

Khám phá thêm: Những tiến bộ y học hàng đầu trong lịch sử.

Maria Goeppert Mayer, nhà vật lý (1906–1972)

Nhà vật lý người Mỹ gốc Đức Maria Goeppert Mayer chỉ là người phụ nữ thứ hai sau Marie Curie đoạt giải Nobel Vật lý. Bà đã mang về giải thưởng này vào năm 1963, cùng với hai đồng nghiệp nam, cho công trình nghiên cứu về cấu trúc của vỏ hạt nhân. Với tất cả tài năng của mình, Goeppert Mayer thường làm việc không công hoặc các vị trí tự nguyện tại các trường đại học sau khi bà chuyển đến Hoa Kỳ vào những năm 1930.

Điều này một phần là do giới tính của bà ấy, nhưng cũng do có tình cảm chống Đức trong suốt Thế chiến thứ hai. Mãi đến năm 1941, bà mới nhận được vị trí giáo sư được trả lương đầu tiên khi làm việc bán thời gian tại Sarah Lawrence College.

Tuy nhiên, điều này không khiến bà nương tay. Bà ấy không chỉ làm việc trong Dự án Manhattan (Dự án nghiên cứu bom nguyên tử) mà còn hợp tác với Edward Teller trong “siêu bom tấn” của anh ấy. Hoạt động tích cực trong cộng đồng khoa học, Giải thưởng Maria Goeppert-Mayer dành cho các nhà vật lý nữ khởi nghiệp sớm được thành lập để vinh danh bà vào năm 1986.

Katherine Johnson, nhà toán học (1918–2020)

Năm 1953, nhà toán học Katherine Johnson bắt đầu sự nghiệp huyền thoại của mình tại NASA với tư cách là một “máy tính người”. Là một trong những phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên làm việc tại NASA, bà đã phá vỡ các rào cản trong khi giúp cơ quan vũ trụ đạt được mục tiêu của mình. Một trong những thành tựu tuyệt vời nhất của bà là tính toán đường bay của Apollo 11, cho phép nó hạ cánh thành công trên Mặt trăng và quay trở lại Trái đất.

Trong sự nghiệp 33 năm của mình, bà đã chuyển từ tính toán thủ công các quỹ đạo phức tạp sang hướng dẫn NASA sử dụng máy tính. Năm 2016, công việc của bà đã được tôn vinh trong bộ phim Hidden Figures, trong đó bà được đóng vai Taraji P. Henson.

Rosalind Franklin, nhà hoá học (1920–1958)

Rosalind Franklin bị đánh giá thấp vì công việc của bà ấy trong việc tìm hiểu cấu trúc của DNA lúc bấy giờ không được xem trọng. Công việc của bà ấy chỉ được đánh giá đầy đủ sau khi bà ấy qua đời không đúng lúc. Nhà hóa học người Anh đã nghiên cứu hình ảnh nhiễu xạ tia X của DNA dẫn đến việc xác định chính xác cấu trúc chuỗi xoắn kép của nó.

Thật không may, cuộc đời của Franklin đã bị cắt ngắn sau cuộc chiến với căn bệnh ung thư buồng trứng. Bà qua đời năm 1958 ở tuổi 37. Nhiều người cảm thấy rằng lẽ ra bà đã được trao giải Nobel Hóa học cho công việc của mình, nhưng điều này không phổ biến vào thời điểm đó.

Kể từ khi bà qua đời, công việc của bà đã được công nhận rộng rãi và đồng nghiệp của bà là Aaron Klug tiếp tục nghiên cứu của bà, đoạt giải Nobel Hóa học năm 1982. Nhiều người cảm thấy rằng nếu bà còn sống, Franklin sẽ chia sẻ vinh dự đó.

Chien-Shiung Wu, nhà vật lý (1912–1997)

Đôi khi được gọi là “đệ nhất phu nhân vật lý”, nhà vật lý người Mỹ gốc Hoa Chien-Shiung Wu đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực vật lý hạt nhân và hạt nhân. Wu đến Hoa Kỳ năm 1936 để lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Michigan với sự khuyến khích của cố vấn của bà ở Trung Quốc. Mặc dù bà ấy muốn trở về Trung Quốc sau khi học xong, Thế chiến II đã thay đổi kế hoạch của cô ấy.

Cuối cùng, bà đã có những đóng góp cho Dự án Manhattan, nhưng có lẽ được biết đến nhiều nhất với thí nghiệm Wu. Thí nghiệm vật lý hạt và hạt nhân năm 1956 này đã chứng minh rằng tính chẵn lẻ không được bảo toàn. Công trình này đã mang về cho bà và 2 đồng nghiệp nam, những người đã đề xuất thí nghiệm này giải Nobel Vật lý năm 1957. Wu cuối cùng đã được công nhận vào năm 1978 cho công việc của mình khi bà được trao Giải Wolf về Vật lý.

Wu rất ngưỡng mộ công việc của Marie Curie và thú vị là họ thường được so sánh với công việc của họ trong vật lý thực nghiệm.

Jane Cooke Wright, bác sĩ ung thư (1919–2013)

Bác sĩ ung thư Jane Cooke Wright là người tiên phong trong nghiên cứu ung thư. Sinh ra trong một gia đình bác sĩ, Tiến sĩ Wright tiếp nối di sản này và tạo dựng tên tuổi cho bản thân nhờ những đổi mới trong hóa trị và tìm ra các loại thuốc mới để điều trị ung thư vú. Bà đã giúp đưa hóa trị liệu phổ biến rộng rãi hơn cho công chúng trong thời gian làm việc tại Quỹ Nghiên cứu Ung thư tại Bệnh viện Harlem vào những năm 1950.

Tiến sĩ Wright cũng là người đầu tiên xác định methotrexate, một loại thuốc là cơ sở cho tất cả các phương pháp hóa trị hiện đại và vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.

Bà cũng đã giúp thành lập Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ và là nữ chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Ung thư New York. Sở thích của bà cũng đưa bà ra nước ngoài, khi bà đến Kenya, Ghana, Trung Quốc và Đông Âu để làm việc với các bác sĩ ung thư khác và điều trị cho bệnh nhân.

Jennifer Doudna, Nhà hoá sinh (1964 -)

Khi nhà sinh hóa học Jennifer Doudna mang về giải Nobel Hóa học năm 2020 – một giải thưởng mà bà chia sẻ với Emmanuelle Charpentier – bà đã làm nên lịch sử với tư cách là người phụ nữ đầu tiên giành được cùng một phụ nữ khác. Công trình nghiên cứu kéo di truyền CRISPR / Cas9 của Giáo sư Doudna đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nghiên cứu di truyền bằng cách cho phép các nhà khoa học chỉnh sửa gen của tế bào trong thời gian kỷ lục.

Giáo sư Doudna hiện là Giáo sư chủ nhiệm khoa hóa học tại Đại học Ber started, California. Để đối phó với đại dịch COVID-19, Doudna và một nhóm các nhà nghiên cứu đã mở một trung tâm xét nghiệm tại Viện Gen Sáng tạo và sử dụng các công nghệ dựa trên CRISPR để giúp chẩn đoán bệnh.

Khám phá thêm: Những nhà lãnh đạo thế giới đã học ngành nào?